So với Phật giáo và Nho giáo, tầm ảnh hưởng của Đạo giáo ở Việt Nam là khiêm tốn. Tình trạng đó, không thay đổi, kể cả khi lịch sử bước vào thời kỳ thuộc địa.
Tư liệu về Đạo giáo được viết bằng 2 loại văn tự, là quốc ngữ, và chữ Pháp; trong đó chữ quốc ngữ là chủ yếu. Ngoài ra, thời kỳ này cũng còn lưu truyền một số văn bản Hán và Nôm. Về thời gian và không gian, các văn bản Đạo giáo xuất hiện từ những năm 1920 đến 1945, tại Nam Kỳ, và Bắc Kỳ (căn bản là tại Hà Nội).
Các ấn phẩm, bao gồm cả dịch thuật biên khảo, về Đạo giáo có thể chia thành các nội dung:
- Giới thiệu kinh điển: tiêu biểu là Đạo đức kinh in năm 1928 tại Sài Gòn.
- Diễn giải và truyền bá kinh sách, tư tưởng
Công trình Đạo giáo của Trần Trọng Kim đăng nhiều kỳ trên Nam Phong tạp chí, các số 67, 68, 74, 75 (1923). Trong loạt bài này, Trần Trọng Kim đã diễn giải một cách đơn giản về học thuyết của Lão Tử chứa đựng trong Đạo đức kinh (phần 1), sau đó tóm thuật tư tưởng của các bậc hậu bối xuất sắc nhất của đạo giáo là Liệt Tử, Trang Tử (phần 2), và trình bày những biến thể của đạo giáo đời sau dưới hình thức đạo thần tiên/tu tiên chủ yếu nhắm vào mục đích trường sinh bất lão của giới đạo sĩ từ thời Tần Hán trở đi (phần 3 và 4), cũng như những ảnh hưởng xấu của nó đến đời sống thực tế của dân gian người Việt.
Ngoài ra còn có nhiều tác phẩm đáng chú ý khác như Đạo giáo (nhiều tác giả) (1933), Toàn chân: triết luận của Nguyễn Duy Cần (1936), Lão Tử triết học khảo cứu của Ngô Tất Tố và Nguyễn Đức Tịnh (1942), Âm chất kinh: Văn Xương đế quân (1940), Kinh Thái thượng cảm ứng có diễn nghĩa (1933), Cửa Phật nhà tiên (1937), Tam giáo thiển đàm của Đoàn Thị Sâm (1938), Tam giáo đồng giáng trấp trung chân kinh (1941), v.v.
Điều đáng chú ý là trong cách diễn giải của những tư liệu nói trên bộc lộ một sự phân biệt về cách hiểu khái niệm “đạo giáo”: đạo giáo với tư cách một triết học theo quan điểm của Trần Trọng Kim ở phần 1 của bài Đạo giáo, và đạo giáo như một tín ngưỡng thể hiện qua Âm chất kinh: Văn Xương đế quân, Kinh Thái thượng cảm ứng có diễn nghĩa, Cửa Phật nhà tiên, hay Tam giáo thiển đàm, Tam giáo đồng giáng trấp trung chân kinh. Đồng thời cách nhìn đạo giáo như một tín ngưỡng cũng thể hiện quan niệm đạo giáo như một tín ngưỡng hỗn nhập (giữa tín ngưỡng du nhập và tín ngưỡng địa).
Trên thực tế, có thể thấy chất “đối thoại” giữa hai cách nhìn đạo giáo bộc lộ rõ nhất qua 3 cuốn sách:
-Đạo giáo (1933) gồm 3 quyển (quyển 1 chú giải Đạo đức kinh của Lão Tử; quyển 2 giới thiệu kinh Cảm ứng và các tổ chức đạo giáo ở Trung Hoa; quyển 3 – lớn nhất – trình bày nguyên nhân tâm bệnh, biện pháp dưỡng sinh). Như vậy đây là cuốn sách thể hiện các nhìn đạo giáo như một tín ngưỡng, tôn giáo.
-Còn Toàn chân: triết luận (1936) và Lão Tử triết học khảo cứu (1942) là hai khảo cứu triết học, đặc biệt là cuốn 1942; tuy nhiên giữa hai cuốn này có điểm khác biệt: Toàn chân… mang quan điểm duy tâm về triết học, còn Lão Tử… thì không. Hơn thế, Lão Tử còn thể hiện thái độ khách quan và độc lập khá rõ, khi phê phán một số luận điểm của Hồ Thích – một học giả Trung Hoa quyền uy lúc bấy giờ, như quan điểm về tự nhiên, về vô vi; và phê phán học thuyết của Lão Tử ở tính ngụy biện khi phân biệt “đạo” và “đức”.
Công trình hiếm hoi bằng tiếng Pháp liên quan đến đạo giáo là Les sociétés secrètes en terre d’annam của Geoges Coulet xuất bản năm 1926. Tuy không bàn riêng về đạo giáo, nhưng qua khảo sát hoạt động của các hội kín tại Việt Nam những năm cuối thế kỷ XIX - 1920, Coulet đã đưa ra nhiều cứ liệu về sự hiện diện của tín ngưỡng thần tiên, huyền bí trong các hoạt động của những hội này.
Ngoài ra, thời kỳ này cũng xuất hiện những ấn phẩm dưới dạng truyện kể, hoặc sáng tác văn chương về các nhân vật của đạo giáo, chẳng hạn như Nam hải thần tiên phật liệt truyện do Trần Văn Hiệp dịch, xuất bản năm 1935 hay Đạo sĩ của Khái Hưng do Đời nay xuất bản năm 1944. (Xem mục Văn học).
Đăng tải tháng 2 năm 2021