Đạo Cao Đài

Đây là hình thức tôn giáo bản địa và hoàn toàn mới mẻ tại Việt Nam. 

Ra đời trên cơ sở tổ hợp các tư tưởng, tín ngưỡng (chủ yếu là Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo), nhằm thể hiện tinh thần canh tân và dân tộc, đạo Cao đài có lượng tư liệu khá lớn, khoảng 300 ấn phẩm. Tư liệu này được viết bằng 2 dạng văn tự, là quốc ngữ, và chữ Pháp, trong đó chữ quốc ngữ là chủ yếu. Về thời gian và không gian địa lý lưu hành: từ năm 1926 đến 1945, tại một số tỉnh thành, như: Tây Ninh, Cần Thơ, Sa Đéc, Bến Tre, Mỹ Tho, Sài Gòn, Hà Nội… (Việt Nam), Paris (Pháp) trong đó chủ yếu là Sài Gòn.

Toàn bộ tư liệu về đạo Cao Đài xuất hiện, tính từ lúc tôn giáo này chính thức ra đời (năm 1926) cho đến 1945, còn lại cho đến nay, có thể chia thành sáu cụm như sau:

Tư liệu về các toà thánh: như Thánh thất Vũng Liêm (1928), Thánh thất Mỹ Tho (1928), Thánh thất Mỹ Tho: Thánh ngôn về chánh tà yếu lý (1931), Châu tri và chương trình: Toà thánh Tây Ninh (1928), Toà thánh Tây Ninh (1945)…

Các văn bản hành chính, hoặc ghi chép liên quan đến sự ra đời hoặc hoạt động của đạo phái, hoặc của tín đồ Cao Đài comme Les sociétés secrètes en terre d’Annam  của Geoges Coulet (1926), Bài diễn văn của Hộ Pháp Phạm Công Tắc đọc tại Toà thánh Tây Ninh của Phạm Công Tắc (1928), Lịch sử của quan phủ Ngô Văn Chiêu là người đã sáng lập đạo "Cao đài" 1878-1932 (1932), Điều lệ Cao đài thượng đế hội giáo (1928),…

Tư liệu diễn giảng về đạo pháp, bao gồm những yếu lĩnh cơ bản của tông pháp hoặc những phép tắc cụ thể trong đời sống thường ngày, như:

Pháp chánh truyền được công bố sau lễ khai đạo ngày 15 tháng 10 năm 1926 tại chùa Gò Kén, làng Long Thành, Tây Ninh. Văn bản này được coi như Hiến pháp đối với đạo Cao Đài, và có nội dung ấn định các hàng phẩm chức sắc, chức việc trong đạo, như: Ấn định số lượng nhân sự từng phẩm, quyền hành và trách nhiệm từng phẩm, phương thức cầu phong và cầu thăng, quy định về phẩm phục áo mũ chức sắc, chức việc.

Thánh ngôn hiệp tuyển (1927-1963) dày 102 trang, do các chức sắc cao cấp của hội (Thượng phẩm Cao Quỳnh Cư, Bảo pháp Nguyễn Trung Hậu, Đầu sư Ngọc Lịch Nguyệt – tức Lê Văn Lịch) biên soạn. Đây là một tuyển chọn lời dạy của các đấng thần, thánh, tiên, phật.

Và các kinh kệ như Đại đạo Tam kỳ Phổ độ Kinh (1926), Kinh cao đài (1928), Kinh cúng thứ thời thánh ngôn - cảm ứng - tang tế và cầu siêu (1929), Kinh nhựt thời (1932), Kệ nhựt thời (1932), Tam nguơn giác thế kinh (1932), Tam nguơn giác thế kinh (1932)…

Đáng chú ý, có một mảng sách yếu chỉ dành cho nữ giới, hoặc về đời sống lứa đôi, chẳng hạn: Thánh thất nhơn ái nữ phái: Tam tòng tứ đức luận (1930), Huấn nữ thánh ngôn (1931), Đạo mạch tri nguyên: Phu thê yếu luận  của Huê Chương (1929)…

Tư liệu minh chứng hoặc diễn giảng về tính hỗn tạp của đạo Cao Đài, như: Tam giáo đạo tổ hiệp nhứt lưu truyền (1928), Tiên phật hợp tâm (1932)…

Đặc biệt là những ấn phẩm liên quan đến lịch sử hình thành  và hoạt động của đạo Cao Đài. Ở mảng tư liệu này, nguồn tiếng Pháp. Năm 1948 và 1949 tại Paris, Gabriel Gobron – nhà văn Pháp đồng thời là tín đồ đạo Cao Đài - cho xuất bản hai ấn phẩm về lịch sử đạo Cao Đài là Histoire du caodaïsmeHistoire et philosophie du caodaïsme. Trong hai công trình phẩm này, G. Gobron đã phân tích vai trò của Thần linh học trong việc hình thành và phát triển của đạo Cao Đài. Ông cũng giới thiệu giáo lý, luật lệ, lễ nghi, tổ chức giáo hội; và nhận định: đạo Cao Đài có giá trị liên kết các phần tử, liên kết những người đang sống của thời hiện tại trong tất cả các địa phương, với những người đã chết của thời quá khứ, và chuẩn bị cho kiếp tái sinh vị lai.

Ngoài ra còn có các ấn phẩm tiêu biểu sau: Cultes et religion l’Indochine annamite (1928) của Geoges Coulet, Compte rendu de mandat de H. Marinetti, délégué au Conseil Supérieur des Colonies (Báo cáo về nhiệm kỳ của H. Marinetti) (1933), Etude sur le caodaïsme et ses dissidences in song ngữ Pháp Việt (1940).

Còn lại là chữ quốc ngữ, như: Đại đạo vấn đáp căn nguyên của Thái Thơ Thanh (1928), Cao Đài đàm: Quái giáo nghị của Đặng Thúc Liêng (1928), Nói chuyện đạo nước mình của Nguyễn Tư Thức (1929), Cái án đạo Cao Đài của Đào Trinh Nhất (1929), Cải án Cao Đài của Băng Thanh (1929), Đại đạo căn nguyên của Nguyễn Trung Hậu (1930), Chánh tà thiệt luận phản đối Cao - Đài đàm Quái - giáo nghị của Nguyễn Văn Kiết (1930).

Đây là nguồn tư liệu quan trọng cho các sử gia lịch sử tư tưởng, lịch sử tôn giáo hoặc các nghiên cứu sử dụng để tìm hiểu, diễn giải, đánh giá lịch sử tôn giáo này. Trong đó, đáng chú ý là hai ấn phẩm mang tính đối thoại mạnh mẽ. Đó là: Cái án đạo Cao Đài (Đào Trinh Nhất, 1929). Trong biên khảo này, tác giả đã trình bày quá trình ra đời, giáo lý, cách thức hành đạo của Cao Đài, như các hoạt động cơ bút (nghi lễ cầu cơ và chấp bút, là một nền tảng của đạo Cao Đài) của các vị công chức dẫn đến sự ra đời của đạo Cao Đài. Và Đào Trinh Nhất cho rằng: đạo Cao Đài là một tà giáo, không có những chính kiến rõ ràng, luôn biểu hiện sự hỗn tạp trong giáo lý, cách hành đạo, cũng như cơ cấu tổ chức; do đó, đạo Cao Đài sẽ “ngăn trở sự tiến hóa, có hại cho sinh hoạt dân gian và đào sâu hố phân cách giữa giai cấp này với giai cấp kia”. Lập tức, tác giả Băng Thanh viết Cải án Cao Đài phản biện lại. Tác giả Băng Thanh cho rằng sự tổng hợp giáo lý mà đạo Cao Đài thể hiện là một khía cạnh đạo đức, và nó thể hiện ý nghĩa sâu xa của đạo Cao Đài.

Năm 1930, Nguyễn Trung Hậu viết Đại đạo căn nguyên trình bày chi tiết về lịch sử hình thành đạo Cao Đài. Tác giả không đưa quan điểm của mình vào trong bài viết, chỉ miêu thuật chi tiết những sự kiện đã diễn ra trong đạo, từ việc thu nhận đệ tử đến việc trình Tờ Khai đạo lên Chính phủ Nam kỳ, tường thuật về Ngày khai đạo, sự kiện quỷ phá trong ngày khai đạo… Đây có thể được xem là công trình lịch sử chi tiết của đạo Cao Đài từ khi manh nha hình thành đến khi dời cơ sở thờ tự về xây dựng Tòa thánh Tây Ninh vào năm 1927.

Như vậy, có thể coi các tư liệu về đạo Cao Đài trước 1945 tại Việt Nam đã cung cấp các thông tin về 3 phương diện của một tôn giáo, đó là: đức tin (được tạo dựng từ các huyền thoại, truyền thuyết, … về các đấng thần linh, hoặc sự vật sự việc linh thiêng, linh nghiệm), việc thực hành nghi lễ, và những người thực hành nghi lễ của tôn giáo này.

 

Đăng tải tháng 2 năm 2021

Réduire l'article ^

Tra cứu tài liệu

Xem chi tiết
 
  • Tam giáo đạo tổ hiệp...
  • Tiên phật hiệp tông 1932
 
 
Tra cứu tài liệu
Xem chi tiết
 
  • Dạo mạch tri nguyên Huê,...
  • Tam tùng tú ̛đúc̛ luận 1930
  • Huấn nũ ̛tù ̛âm. Của Ðúc̛...
  • Huấn-Nũ ̛Thuyết Minh 1938
  • Huấn nũ ̛Thánh ngôn 1931
  • Huã̂n-nũ ̛tù ̛-âm 1935
 
 
Tra cứu tài liệu
Xem chi tiết
 
  • Kinh cúng dại dàn và kinh...
  • Kinh Cúng Tú ̛Thòi̛ 1939
  • Kinh nhụt̛ thòi̛ 1932
  • Kệ nhụt̛ thòi̛ 1932
  • Kinh nhụt̛ thòi̛ 1934
  • Kinh cúng tú ̛thòi̛ 1935
  • Kinh sấm hối 1933
  • Kinh cúng tú ̛-thòi̛ 1933
  • Minh-Pháp Giác-Tâm-Kinh ...
  • Tam nguơn̛ giác thề kinh ...
  • Kinh cúng tú ̛thòi̛ : có...
  • Phõ̂-hóa bũư-kinh và So...
 
 
Tra cứu tài liệu
Xem chi tiết
 
  • Pháp chánh truyền (2e éd.)...
  • Thánh ngôn 1931
  • Thánh ngôn hiệp tuyến 1928
  • Thánh ngôn 1929
  • Chuyển mê khải ngộ 1934
  • Thánh ngôn thần tiên đại...
  • Phổ cáo Đại đạo tam kỳ phổ...
  • Tam nguơn Giác Thế kinh 1932
  • Phổ cáo chúng sanh Đại đạo...
  • Thánh ngôn hiệp tuyển : Bổn...
 
 
Tra cứu tài liệu
Xem chi tiết
 
  • Diều-lệ. Cao đài Thuợn̛g...
  • Bài diễn văn của Hộ Pháp ...
  • Tân-Luật. Ðại đạo tam...
  • Tân-luật. Ðại đạo tam...
  • Ðại-đạo qui-nguyên luợc̛...
  • Kỷ-luật - Thanh-Niên đoàn...
  • Tân Luật Đại Đạo Tam Kỳ...
  • Sách nấu đồ chay Kiêm thời...
 
 
Tra cứu tài liệu
Xem chi tiết
 
  • Chánh tà thiết luận phản...
  • Ðại đạo căn nguyên ...
  • Cái án Cao-Ðài Bang Thanh....
  • Nói chuyện dạo nuớc̛...
  • Cao-Ðài dàm, quái-giáo nghi...
  • Lịch sũ ̛của quan phủ...
  • Đại đạo Vấn đáp căn nguyên ...
  • Yếu lý Thần linh học : Đạo...
 
 
Tra cứu tài liệu